Đầu năm 2011, liên bộ Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) và Bộ Nông ghiệp và Phát triển nông thôn (NN& PTNT) đã ban hành Thông tư liên tịch số 07/2011/TTLT về hướng dẫn một số nội dung về giao rừng, cho thuê rừng gắn với giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp. Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều địa phương, nhiều quy định của Thông tư quá rườm rà khiến nhiều hộ gia đình là người DTTS không thể hoàn thiện hồ sơ giao đất, giao rừng…
Rừng quốc gia Xuân Sơn, Thanh Sơn, Phú Thọ
Ảnh: Minh Thăng
Một thửa rừng, 2 hộ sử dụng
Tại huyện Si Ma Cai, Lào Cai, trong thời gian chuẩn bị tách huyện (huyện Bắc Hà thành hai huyện Bắc Hà và Si Ma Cai), một số khu vực đất rừng khoán bảo vệ (theo chương trình 327) cho hộ, nhóm hộ (thuộc quản lý của lâm trường, ban quản lý rừng phòng hộ) lại được phòng TN & MT Bắc Hà chuyển từ sổ xanh (khoán bảo vệ rừng) sang sổ đỏ (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Đáng chú ý, tình trạng chồng chéo đất rừng của các hộ gia đình và đất rừng truyền thống của cộng đồng lên tới 50-60% so với diện tích đất rừng và cộng đồng. Do đó, đã nảy sinh mâu thuẫn, tranh chấp giữa người dân địa phương với lâm trường.
Một bất cập nữa là theo tiêu chí của ngành lâm nghiệp trong việc đánh giá và phân loại rừng theo bản đồ hiện trạng rà soát bổ sung 3 loại rừng vào bản đồ hiện trạng rừng (năm 2008) thì những diện tích đất rừng trên lại được xác định là rừng phòng hộ.
Theo ông Trần Văn Đằng, Chi cục Lâm nghiệp tỉnh Lào Cai, hiện bản đồ sử dụng giữa cơ quan Kiểm lâm và ngành TN&MT khác nhau. Kiểm lâm sử dụng bản đồ UTM 1/25000 trong khi TN&MT sử dụng bản đồ VN2000 tỷ lệ 10.000. Theo thống kê và bản đồ của Phòng TN & MT thì đều đề cập là rừng phòng hộ, rừng sản xuất nhưng theo ranh giới quy hoạch 3 loại rừng thì diện tích này không nằm trong quy hoạch lâm nghiệp, diện tích quy hoạch theo bản đồ là rừng phòng hộ nhưng trên thực tế và quy hoạch 3 loại rừng là rừng sản xuất và ngược lại, trên bản đồ là rừng sản xuất nhưng trên thực tế và quy hoạch là rừng phòng hộ. Điều này gây khó khăn cho cơ quan quản lý.
Cũng theo phản ánh của nhiều địa phương, hiện vướng mắc lớn nhất trong việc rà soát đất rừng để giao theo Thông tư 38/2007/TT – BNN và thông tư liên tịch 07/2011/TTLT là sự chồng chéo, chống lấn đất rừng giữa các chủ rừng và chưa xác định được ranh giới trên thực địa. Có tình trạng này do quá trình tổ chức giao đất, giao rừng từ trước đến nay thực hiện trên hồ sơ giấy tờ, trên bản đồ mà ít triển khai trên thực địa. Chính vì vậy, trên thực tế đã diễn ra tình trạng một khoảnh đất rừng nhưng lại có hai chủ rừng trong hồ sơ, hoặc đất rừng của các tổ chức nhà nước bao trùm lên cả rừng truyền thống của cộng đồng, đất rừng của hộ dân đang quản lý.
Tăng tính pháp lý cho rừng cộng đồng?
Một trong vướng mắc hiện nay nhiều địa phương gặp là việc quản lý rừng cộng đồng. Khái niệm rừng cộng đồng đã tồn tại từ lâu đời, nó gắn với lợi ích cuộc sống của người dân, gắn với tâm linh, tự do tín ngưỡng của cộng đồng. Những năm gần đây, thực hiện chính sách của Nhà nước về quản lý rừng, một số địa phương đã triển khai giao đất giao rừng cho cộng đồng quản lý và sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. Tuy nhiên, về góc độ pháp lý thì cộng đồng vẫn chưa được Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng đất và quyền hưởng lợi.
Hiện công tác quản lý rừng đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, nhất là khái niệm "sở hữu” rừng ở mỗi dân tộc, địa phương có cách hiểu khác nhau. Tại thôn Lùng Sán, xã Lùng Sui, huyện Si Ma Cai thì diện tích đất, rừng do cha ông, tổ tiên thừa kế lại, mua từ gia đình khác…đều thuộc quyền sở hữu của các gia đình, dòng họ hoặc toàn cộng đồng. Hơn nữa sự công nhận của các thành viên trong cộng đồng đối với việc sở hữu của một đối tượng nào đó về đất rừng khi và chỉ khi quá trình chiếm hữu của đối tượng đó phải được thông qua lễ cúng thần đất (Thứ tỉ) với sự chứng kiến của các thành viên trong cộng đồng. Khái niệm "sở hữu” này hiện vẫn còn rất phổ biến tại công đồng người Mông trên địa bàn Si Ma Cai.
Từ thực tế trên, nhiều ý kiến cho rằng để tạo khuôn khổ pháp lý cho cộng đồng dân cư làng bản tham gia quản lý rừng, thì cần thừa nhận cộng đồng làng bản là một tổ chức có tư cách pháp nhân. Trong đó, cần phải sửa đổi các quy định của Nhà nước cũng như có sự nhìn nhận đúng hơn về quản lý rừng cộng đồng để rừng được quản lý tốt hơn. Đặc biệt, phải thừa nhận cộng đồng là một chủ thể tham gia quản lý tài nguyên rừng. Trong đó, bổ sung vào luật dân sự, cộng đồng dân cư làng bản là một pháp nhân. Tuy nhiên, cũng có nhiều câu hỏi đặt ra là nếu công nhận tính pháp nhân của cộng đồng làng bản thì sẽ giao diện tích rừng nào cho cộng đồng quản lý? Hơn nữa, hiện nay ở nhiều cộng đồng dân tộc đã có sự giao thoa về văn hóa nên vị thế của già bản không còn được như trước, trong trường hợp này ai sẽ là người đứng ra chịu trách nhiệm quản lý diện tích rừng được giao?
Rõ ràng, việc giao rừng và quản lý rừng đang đứng trước rất nhiều thách thức. Song dù áp dụng theo phương pháp nào thì cũng cần có sự lồng ghép hài hòa giữa vai trò của Luật tục cộng đồng và vai trò của Nhà nước.
(Nguồn: http://daidoanket.vn/PrintPreview.aspx?ID=57850)