Trong bối cảnh hội nhập, vai trò của các tổ chức Hội ngày càng tăng là tất yếu không cản được. Vấn đề là phải tạo điều kiện cho Hội vì lợi ích chung của quốc gia, của chính các Hội cũng như của cộng đồng. Chính vì vậy mà điều chỉnh tổ chức và hoạt động của các Hội không phải ở luật mà vai trò quan trọng hơn là ở điều lệ của các Hội. Bản dự luật này can thiệp tương đối sâu vào điều lệ của các Hội là một điều chưa hợp lý.
Chính vì vậy mà có thể nói về một số điểm chưa thành công của bản dự thảo Luật về Hội này như sau:
Dự luật chưa tạo điều kiện thuận lợi cho công dân, tổ chức thực hiện quyền tự do lập hội. Nhiều điều còn chưa bằng luật năm 1957, chưa có quy định rõ quyền lập hội trong chương 1, như vậy là còn kém luật Doanh nghiệp (Chương 1 Luật Doanh nghiệp khẳng định quyền tự do kinh doanh và nghiêm cấm việc cản trở quyền tự do kinh doanh). Tại sao ta không dám quy định như vậy trong Luật về Hội? Theo tôi, cần thể hiện rõ một số nội dung về quyền lập hội của công dân như: Quyền lập hội của nhân dân được tôn trọng và bảo đảm; mọi người đều có quyền lập hội, trõ những người mất quyền công dân hoặc đang bị truy tố trước pháp luật; mọi người có quyền tự do vào hội thành lập hợp pháp, và có quyền tự do ra hội; không ai được xâm phạm quyền lập hội và quyền tự do vào hội, ra hội của người khác... Cụ thể, rõ ràng luôn là một trong những đặc trưng cơ bản của luật.
Việc không đưa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam. Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và các tổ chức tôn giáo vào phạm vi điều chỉnh của Luật về hội là chưa có sức thuyết phục. Phải chăng các tổ chức này được coi như là cơ quan nhà nước hoặc được coi là các tổ chức đặc biệt không mang tính chất của hội? Nên không nói đến vấn đề này. Không nên có khoản 3 điều 3.
Bản dự luật chưa thể hiện rõ vai trò của các hội trong việc thực hiện kiểm tra, giám sát, tư vấn phản biện xã hội đối với việc quản lý Nhà nước, đặc biệt là trong các hoạt động chuyên môn, một trong số các chức năng đã được xác định của các tổ chức Hội từ lâu nay, là điều chưa hợp lý. Cần phải nhìn nhận vấn đề này một cách nghiêm túc và khoa học từ góc độ luật pháp.
Từ những lý do vừa kể trên, có thể nói rằng Dự luật này nghiêng về quản lý Nhà nước với hội thì chính xác hơn. Quá coi trọng vấn đề quản lý nhà nước đối với hội mà coi nhẹ quyền chủ động, quyền tự định đoạt, quyền quyết định của hội sẽ là một điều bất cập. Tôi đồng ý với ý kiến cho rằng Luật chỉ nên quy định những phạm vi bị cấm (như vi phạm an ninh quốc gia...) Còn ngoài phạm vi đó ra thì nên để người ta chủ động làm mới là điều hợp lý.
TS Phạm Hữu Nghị
TBT Tạp chí Nhà nước và Pháp luật