Nhà Nước Pháp quyền thực hiện ý chí thống trị đối với toàn xã hội thông qua Luật pháp, tức là thực hiện chức năng Xã hội Chính trị của Nhà Nước. Đồng thời Nhà Nước Pháp quyền cũng phải giải quyết tất cả những vấn đề trong đời sống Xã hội - Dân sự có liên quan đến Luật pháp, tức là thực hiện chức năng Xã hội - Dân sự của Nhà Nước. Nhà Nước Pháp quyền là mô thức tổ chức Nhà Nước, cho phép có thể thực hiện thống nhất các chức năng Xã hội Chính trị và Xã hội - Dân sự, một cách hiệu quả nhất, đồng thời có nhiều khả năng nhất để thắt chặt mối quan hệ giữa Nhà Nước với Xã hội - Dân sự bằng Pháp luật và thông qua Pháp luật.
Nhà Nước Xã hội Chủ nghĩa của Dân, do Dân, và vì Dân, chứa đựng trong bản chất của mình khả năng thống nhất việc thực hiện các chức năng Xã hội Chính trị và Xã hội - Dân sự. Chính trị và Dân sự đòi hỏi lẫn nhau sự thống nhất ngày càng cao thông qua Pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa.
“Luật về Hội là một nhu cầu tất yếu, xuất phát từ cả hai phía Chính trị và Dân sự. Là sự thể hiện tập trung mối quan hệ đa dạng, đa chiều, giữa Nhà Nước Xã hội Chủ nghĩa và đời sống Xã hội - Dân sự. Vì vậy, Luật về Hội chỉ thực sự có ý nghĩa, khi nó thể hiện được tầm Tư tưởng của thời đại. Thậm chí, Luật về Hội cần phải đi trước một bước để Lường được những diễn biến phức tạp của thời đại. Để vừa có tác dụng điều chỉnh vừa có ý nghĩa hướng dẫn, thúc đẩy các hoạt động Xã hội - Dân sự, phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững.
Với cách đặt vấn đề như trên, chúng tôi mong muốn đóng góp một số ý kiến, chủ yếu mang tính chất phê phán, những mặt chưa được của bản dự thảo Luật về Hội. Hy vọng nó sẽ có tác dụng cho Ban dự thảo Luật, tham khảo để hoàn thiện bản dự thảo.
1. Mục tiêu chiến lược trong bản dự thảo Luật chưa tương xứng với Tư tưởng của Đảng và Nhà Nước thể hiện trong các Chính sách, Đường lối phát triển Kinh tế - Xã hội.
Trước hết, chúng tôi thẳng thắn nói rằng, nội dung Tư tưởng của bản dự thảo Luật về Hội lần này, về căn bản, không khác gì nội dung Tư tưởng thể hiện trong Sắc lệnh ban bố Luật số 102 SL/ L - 004 ngày 20 /5 /1957, quy định về quyền lập Hội. Mặc dù, thời gian cách nhau giữa 02 luật đã gần 50 năm.
Chúng ta đang ở trong một tình thế Lịch sử với những đặc điểm chưa từng có trước đây - Kỷ NGUYÊN TOàN CẦU HÓA. Đại hội IX của Đảng đã nhận định: Toàn cầu hoá là một xu hướng khách quan. Đại Hội cũng đã khẳng định Chủ trương: “Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế Quốc tế để phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị đã ra Nghị Quyết số 07 NQ / TW ngày 27 / 11/ 2001 về Hội nhập kinh tế Quốc tế. Nghị Quyết 07 đã xác định Hội nhập kinh tế Quốc tế là một yếu tố của phát triển. Nghị Quyết đã đề ra CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG THỰC HIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ, trong đó đã chỉ ra việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp luật.
Nghiên cứu Nghị Quyết 07 của Bộ Chính Trị, chúng tôi không tìm thấy Tinh thần, Tư tưởng của Nghị Quyết 07 trong bản dự thảo Luật về Hội. Bản dự thảo Luật về Hội chỉ mới đề ra được khuôn phép cho Hội và những Thủ tục Hành chính mà Hội phải thực hiện, trong khi đó Vai trò, Vị trí, Chức năng, Nhiệm vụ của Hội - loại hình Tổ chức Xã hội - Dân sự, chủ yếu hiện nay, đã không hề được thể hiện.Cần phải được bổ sung, để Luật về Hội tương xứng với tầm Tư tưởng của Đảng và Nhà Nước thể hiện trong đường lối phát triển Kinh tế - Xã hội. Đặc biệt là đường lối hội nhập Kinh tế Quốc tế; trong xu thế toàn cầu hoá của mọi Quốc gia.
2. Sự không thống nhất giữa dự thảo Luật về Hội với các Luật hiện hành
Khi một Luật mới ra đời để thay thế một Luật đã lỗi thời trong cùng một phạm vi điều chỉnh, tất nhiên, nó cần phải phủ định những Quy định đã không còn phù hợp. Nhưng nó không được phép phủ định những quy định của các luật khác đang còn hiệu lực. Vì nếu được phép phủ định các Luật khác thì xảy ra tình trạng Phủ định lẫn nhau giữa các Luật, Luật tự nó sẽ rối loạn và mất hiệu lực điều chỉnh.
Điều 3 trong dự thảo Luật về Hội quy định: trường hợp có sự khác nhau giữa Quy định Luật về Hội với các Quy định của Luật khác về Tổ chức, hoạt động của Hội; thì áp dụng các Quy định của Luật về Hội.
Một cách trực giác có thể đặt ngay hai câu hỏi:
Thứ nhất: Vì sao không quy định cho phù hợp mà lại phải đi phủ định các quy định của luật khác?!
Thứ hai: Luật về Hội có đứng trên các Luật khác không?!
Chỉ cần trả lời 02 câu hỏi này đã thấy có điều gì đó bất ổn trong Quy định tại Điều 3 của bản dự thảo.
Để làm sáng tỏ điều này, chúng tôi xin lấy một ví dụ sau đây:
Điểm 4, Điều 44 Quy định: “Pháp nhân trực thuộc Hội phải hoạt động theo Điều Lệ Pháp nhân do Hội phê duyệt, không trái với Điều lệ Hội và Pháp luật hiện hành".
Điểm C, Điều 7 của Dự thảo Quy định các hành vi bị nghiêm cấm: sử dụng Tư cách Pháp nhân của Hội để thực hiện các hoạt động kinh tế nhằm thu lợi nhuận, chia cho Hội viên và Ban Lãnh đạo Hội.
Trong khi đó, Điểm 3, Điều 15 Luật Khoa học và Công nghệ Quy định: “Các Tổ chức Khoa học và Công nghệ có quyền hợp tác, Liên doanh, nhận tài trợ từ các Tổ chức, cá nhân. Góp vốn bằng tiền, tài sản, giá trị quyền sở hữu Trí tuệ, để tiến hành hoạt động Khoa học và Công nghệ và hoạt động sản xuất, kinh doanh theo Quy đinh của Pháp luật.."
Trên thực tế có rất nhiều Pháp nhân trực thuộc Hội là những Tổ chức Khoa học và Công nghệ - “Luật về Hội thì Nghiêm cấm, Luật Khoa học và Công Nghệ thì Được phép".
Có lẽ chỉ cần một ví dụ thôi cũng đã đủ để xác định sự cần thiết phải sửa đổi các Quy định của Luật về Hội cho phù hợp với các Quy định của Luật khác.
3. Về vấn đề sử dụng và quản lý tài chính tài sản của Hội
Vấn đề quản lý, sử dụng tài sản của Hội cũng như xử lý Tài chính, tài sản của Hội trong các trường hợp chia tách, sáp nhập, giải thể, bị đình chỉ hoạt động, Quy đinh tại các Điều 45, 55, 58, 60,77, 78 trong Bản dự thảo; chúng tôi thấy không minh bạch và chưa nhất quán. Chúng tôi đề nghị, đối với những vấn đề liên quan đến việc quan lý sử dụng các nguồn tài chính, việc xử lý tài chính trong các trường hợp Hội chia tách, sáp nhập, giải thể, ngừng hoạt động là những vấn đề tỉ mỉ, sự vụ và phức tạp. Đòi hỏi phải sử dụng thuật ngữ chuyên môn về tài chính - kế toán một cách chính xác. Các Quy định phải phù hợp với Luật Kế toán, Kiểm toán, Luật Ngân sách Nhà Nước. Vì vậy, không nên Quy định một cách thiếu tính thống nhất ở trong Luật này, mà nên giao trách nhiệm đó cho Chính Phủ để Chính Phủ giao cho Bộ Tài Chính ra thông tư hướng dẫn.
Bà Trần Thị Lành
TT Nghiên cứu và Phát triển năng lực phụ nữ Dân tộc