Xét về mặt lịch sử, vận động hàng lang là một loại hoạt động đã xuất hiện và tồn tại từ lâu trong lịch sử dưới nhiều hình thức công khai hoặc bí mật, trực tiếp hoặc gián tiếp, trao đổi miệng hoặc thư từ, văn bản…, với nhiều phương pháp như đề nghị, thuyết phục, tác động, gây sức ép và nhiều cấp độ khác nhau tùy thuộc vào nội dung, mục đích, yêu cầu, và năng lực của người hay nhóm người tiến hành hoạt động này. Lúc đầu, vận động hành lang diễn ra chủ yếu dưới hình thức bí mật, trực tiếp, do một hay một nhóm người nhỏ thực hiện để tác động vào những người có thẩm quyền ra các quyết định, chính sách hoặc người có ảnh hưởng lớn, có thể tác động đến người có thẩm quyền ra quyết định, chính sách. Vì các hoạt động diễn ra chủ yếu dưới hình thức bí mật và trực tiếp nên vận động người vận động thường tìm mọi cách để tiếp cận, tác động, đề nghị hoặc gây sức ép, thậm chí là mua chuộc người có thẩm quyền để nhằm đạt được mục đích.
Cùng với sự phát triển của nhà nước, pháp luật và dân chủ, quy mô hoạt động của nhà nước và phạm vi điều chỉnh của pháp luật ngày càng được mở rộng, các chính thể cộng hòa, nhất là chính thể cộng hòa dân chủ ngày càng phát triển, vị thế của các cơ quan đại diện trong bộ máy nhà nước ngày càng được đề cao, các thể chế tiến bộ được xây dựng trên cơ sở đề cao giá trị của hiến pháp, dân chủ và pháp quyền ngày càng được củng cố và hoàn thiện, thì các hoạt động vận động hành lang cũng có sự chuyển biến mạnh mẽ cả về quy mô, nội dung, hình thức, phương pháp và trở thành hoạt động có tính chuyên nghiệp cao. Tình hình đó đã làm nảy sinh những yêu cầu mới về điều chỉnh và kiểm soát các hoạt động vận động hành lang, trong đó tính công khai và minh bạch được xem là những yêu cầu cơ bản mang tính nguyên tắc của vận động hành lang.
Tính công khai minh bạch của vận động hành lang xuất phát từ những lý do cơ bản sau đây:
Thứ nhất, vận động hành lang là hoạt động mang tính chuyên nghiệp, nhưng không mang tính chính thức vì nó được diễn ra bên ngoài các phòng họp và làm việc chính thức của các cơ quan có thẩm quyển ra các quyết định, chính sách. Mặc dù không phải là hoạt chính thức nhưng tính chuyên nghiệp của vận động hành lang luôn đòi hỏi người vận động hành lang (lobbiest) phải có năng lực thực sự, có đạo đức nghề nghiệp và tiến hành nhiều hoạt động khác nhau như lên kế hoạch, nghiên cứu, thu thập thông tin, liên hệ, tương tác và phối hợp những hoạt động với những người khác…Điều đó đòi hỏi phải có những quy định để xác nhận năng lực, phẩm chất của người vận động hành lang và bảo đảm cho các hoạt động của người vận động hành lang diễn ra trong một trật tự hợp lý, tránh việc lợi dụng tính không chính thức của các vận động hành lang để thực hiện hoạt động bất hợp pháp.
Thứ hai, vận động hành lang là những hoạt động đa dạng và đa mục đích. Đó là những hoạt động có tính hệ thống nhằm tiếp cận thuyết phục, gây ảnh hưởng, tác động đến quá trình ra quyết định của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, các nghị sĩ, quan chức và những người có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước nhằm đạt được sự ủng hộ hoặc không ủng hộ trong việc giải quyết, quyết định về những vấn đề nhất định như: Đồng tình hoặc phản đối một chính sách, thông qua hoặc không thông qua một dự luật, một chương trình, một kế hoạch; kí kết hoặc không kí kết hợp đồng; cấp hoặc không cấp chứng chỉ, quyết định hay không quyết định việc đề cử, bổ nhiệm quan chức, quyết định hay không quyết định một vấn đề nào đấy có liên quan đến lợi ích cộng đồng hoặc cá nhân…Tình hình đó cho thấy tính chất phức tạp của vận động hành lang và nếu tính công khai minh bạch không được đảm bảo thì tình trạng lộn xộn và không kiểm soát được các hoạt động vận động hành lang tất yếu sẽ xãy ra.
Thứ ba, vận động hành lang bao gồm các hoạt động mang tính chất trung gian. Người vận động hành lang là nhân vật trung gian thực hiện sự tương tác gián tiếp giữa khách hàng với cơ quan nhà nước và những người có thẩm quyền. Thông tin, kĩ năng phân tích, tổng hợp, xử lý thông tin cũng như những kĩ năng thuyết phục, tác động gây ảnh hướng đến chủ thể quyền là hết sức quan trọng. Nhà vận động hành lang tuy không có thẩm quyền, nhưng lại tham gia vào quá trình hình thanh ra các quyết định của chủ thể quyền lực bằng cách tạo niềm tin nhờ tính thuyết phục của những thông tin được cho là phản ánh ý chí, nguyện vọng và lợi ích của người hoặc nhóm người lợi ích mà họ đại diện. Vì vậy, nếu đó là những thông tin đúng, được thu nhập và xử lý một cách chính xác, hợp pháp, khách quan và có cơ sở thì sẽ giúp cho chủ thể quyền lực ra được những quyết định đúng và ngược lại. Do đó, để tránh việc lợi dụng tính chất trung gian của vận đông hanh lang, đảm bảo tính đúng đắn trung thực của những thông tin, lý lẽ mà người vận động hành lang đưa ra đề nghị, tác động, thuyết phục chủ thể quyền lực ra các quyết định, chính sách thì phải chú trọng bảo đảm tính công khai, minh bạch trong các hoạt đọng vận động hành lang.
Thứ tư, vận động hành lang cần đến những nguồn lực tài chính do khách hành cung cấp, vì vậy nó cũng có những mặt trái cần được tính đến, đó là tình trạng “thiên vị” vì lợi ích kinh tế, nhằm phuc vụ cho quyền lợi riêng của cá nhân.
GS-TS Lê Minh Tâm
Trường Đại học Luật Hà Nội