Các nhóm lợi ích có tổ chức là các cộng đồng xã hội làm thoả mãn một cách tích cực các lợi ích riêng của mình với sự hỗ trợ của sự tác động có định hướng mục đích đến các cơ quan nhà nước hoặc đến những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan đó. Theo cấu thành của mình, các nhóm lợi ích có tổ chức thường có số lượng rất đông, nhưng đôi khi cũng có số lượng không lớn. Các nhóm lợi ích có tổ chức được phân thành hai phạm trù: các nhóm lợi ích xã hội và các nhóm lợi ích đặc thù (riêng).
Các nhóm gây áp lực là các cơ cấu quản lý có số lượng không lớn do các nhóm lợi ích có tổ chức thành lập ra để đại diện và bảo vệ lợi ích của họ trong các cơ quan quyền lực nhà nước. Trong thời gian gần đây các nhóm đó thường được gọi là “các nhóm vận động hành lang”, do vậy chính quá trình gây áp lực đó được gọi là “việc vận động hành lang”. Các nhóm vận động hành lang, thông thường được phân thành các nhóm vận động hành lang hợp pháp và các nhóm vận động hành lang không hợp pháp.
Cơ chế tác động của xã hội dân sự đến sự lãnh đạo chính trị và đến bộ máy các cơ quan nhà nước được thể hiện như sau: Các nhóm lợi ích có tổ chức thành lập ra các nhóm gây áp lực (các nhóm vận động hành lang), đưa các lợi ích “cương lĩnh” và “đặc thù” của mình đến với các đảng chính trị và các nhóm gây áp lực (các nhóm vận động hành lang) tổng kết, tập hợp các đòi hỏi đó, đưa chúng vào trong các chương trình chung và vận động sự ủng hộ đối với các đòi hỏi đó. Các cơ quan nhà nước chuyển tải các đòi hỏi đó vào trong chính sách của Nhà nước và các đạo luật, sau đó tổ chức thực hiện chính sách và các đạo luật đó.
Xã hội dân sự ở Việt Nam hiện đang trong quá trình hình thành. Theo từng mức độ hình thành nó bắt đầu ngày càng thể hiện rõ hơn về mình và điều đó được thể hiện, một mặt ở các hoạt động xã hội đối trọng khác nhau của các nhóm lợi ích có tổ chức phản ứng lại các cơ quan quyền lực nhà nước, và mặt khác ở sự mong muốn rõ ràng của phần lớn các nhóm đó trong việc hợp tác mang tính chất xây dựng với tất cả các cơ quan quyền lực nhà nước ở các cấp khác nhau.
PGS-TS Võ Khánh Vinh
Viện Khoa học xã hội Việt Nam